Một số hệ thống quân hàm hiện đại từng được sử dụng Quân_hàm

Lực lượng vũ trang Liên bang Xô Viết

Xem thêm: Quân hàm Lực lượng vũ trang Liên bang Xô Viết

Năm 1922, Hồng quân Công nông Liên Xô ra đời, kế thừa từ Hồng quân Công nông của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. Hệ thống quân hàm bị bãi bỏ hệ thống vì những người Bolshevik cho rằng hệ thống quân hàm là một di sản của sự phân cấp bất bình đẳng, vì vậy họ không dùng danh từ ngài sĩ quan (офицер) và thay bằng danh từ đồng chí chỉ huy (товарищ Командир). Một hệ thống cấp bậc bán chính thức được sử dụng để tạm thay thế cho hệ thống quân hàm, bằng cách gọi tắt chức vụ mà quân nhân đó nắm giữ. Chẳng hạn, комкор được gọi tắt từ Командир корпуса dùng để chỉ quân nhân giữ chức vụ Quân đoàn trưởng hoặc tương đương.

Năm 1924, một hệ thống phân hạng quân sự được áp dụng, phân thành 14 bậc từ K-1 (thấp nhất) cho đến K-14 (cao nhất). Hệ thống này còn áp dụng cho cả các cán bộ công tác trong Hồng quân và Hải quân tương đương ngạch sĩ quan, bao gồm Cán bộ Chính trị, Kỹ thuật, Hậu cần, Quân y và các lực lượng vũ trang khác (kể cả cảnh sát). Tuy nhiên, không có bất kỳ quy định nào về kiểu dáng phù hiệu phân biệt cho hệ thống phân hạng trên. Trong thời kỳ này, danh xưng Tổng tư lệnh (ГладКом) được dùng cho một số chỉ huy cao cấp, nhưng không được xếp vào bảng phân hạng.

Mãi đến năm 1935, do yêu cầu chính quy quân đội và tổ chức khoa học, một hệ thống cấp bậc chính thức được đặt ra, đồng thời cũng lần đầu tiên quy định phù hiệu cấp bậc cho các quân nhân và cán bộ chính trị. Về cơ bản, đây là quy định về chi tiết các dấu hiệu cấp bậc trên cơ sở các danh xưng trong hệ thống phân hạng năm 1924. Tuy vậy, hệ thống phân bậc này cũng đánh dấu một bước cải tiến lớn so với hệ thống cấp bậc thời Đế quốc Nga, vốn khá rối rắm và không thống nhất, bằng cách thu gọn và chuẩn hóa hệ thống các cấp bậc giữa các quân binh chủng khác nhau. Tuy vậy, các bậc quân nhân tương đương cấp tướng vẫn duy trì các danh xưng căn cứ vào chức vụ để đặt tên gọi cấp bậc[11], khác với thông lệ của nhiều nước. Bên cạnh đó, hệ thống cấp bậc ở các binh chủng kỹ thuật cũng được quy định rõ hơn thời Đế quốc Nga. Một điều cần lưu ý là hệ thống danh xưng cấp bậc của Hồng quân và Hải quân là khác nhau.

Tháng 9 năm 1935, cấp bậc Nguyên soái Liên Xô (Маршал Советского Союза) được đặt ra để "tôn vinh các Cán bộ quân sự của Dân ủy và các chỉ huy xuất sắc nhất". Hệ thống cũng bổ sung hoặc thay đổi danh xưng của một số cấp bậc sĩ quan khác, dần đi vào hoàn chỉnh vào năm 1940, với 6 cấp 17 bậc.

Sau Chiến thắng Stalingrad ngày 2 tháng 2 năm 1943, Xô Viết tối cao Liên Xô ra sắc lệnh về hệ thống cấp bậc hàm mới có hình thức tương tự như hệ thống cấp bậc hàm của Nga Hoàng, với vài khác biệt nhỏ. Hệ thống cấp hàm của sĩ quan chính trị cũng đồng nhất với quân hàm quân đội. Một loạt các cấp bậc Nguyên soái Tư lệnhNguyên soái Quân binh chủng được đặt ra. Năm 1945, cấp bậc Đại Nguyên soái Liên bang Xô Viết được đặt ra để phong cho Stalin. Hệ thống này có 6 cấp 21 bậc.

Năm 1946, Hồng quân Liên Xô được đổi tên thành Quân đội Xô viết và cùng với Hải quân Liên Xô thành Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Sau khi Stalin chết vào năm 1953, cấp bậc Đại Nguyên soái cũng không được sử dụng nữa. Năm 1955, cấp hàm Đô đốc Hạm đội Liên bang Xô viết được đặt ra. Hệ thống quân hàm Lực lượng Vũ trang Liên Xô trở nên ổn định trong một thời gian dài với 6 cấp 20 bậc.

Đến năm 1981, Xô viết tối cao một lần nữa sửa đổi hệ thống quân hàm của Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Các cấp bậc Nguyên soái được bãi bỏ, trừ hàm Nguyên soái Liên Xô được giữ lại. Một số cấp bậc Hạ sĩ quan được đặt ra. Hệ thống này vẫn có 6 cấp 20 bậc, sử dụng đến năm 1991 thì chấm dứt tồn tại sau khi Liên Xô tan vỡ.

Đức Quốc xã

Xem thêm: Quân hàm Lực lượng vũ trang Đức Quốc xã

Việt Nam Cộng hòa

Xem thêm: Quân hàm Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Hệ thống quân hàm của Quân đội Việt Nam Cộng hòa được đặt ra lần đầu năm 1955, với 5 cấp 17 bậc, căn bản dựa trên hệ thống quân hàm của quân đội Pháp, cũng không có cấp bậc tướng 1 sao, nhưng không đặt ra các cấp bậc tướng 5 sao trở lên. Trong lực lượng cảnh sát, một hệ thống cấp bậc cũng được đặt ra vào năm 1962, tuy nhiên về hình thức và danh xưng khác với hệ thống quân hàm quân đội.

Năm 1964, danh xưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa được dùng thay cho danh xưng Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Một hệ thống quân hàm mới được sửa đổi, bổ sung thêm cấp bậc tướng và đô đốc 1 sao và cấp bậc tướng và đô đốc 5 sao, mô phòng theo hệ thống quân hàm quân đội Hoa Kỳ, gồm 5 cấp 19 bậc. Năm 1971, hệ thống quân hàm của được áp dụng thống nhất cho cả lực lượng Cảnh sát.

Hệ thống quân hàm này chỉ tồn tại đến năm 1975, khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chấm dứt tồn tại với tư cách là quân đội của một quốc gia.